Về tính tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước
Ngay sau khi Nghị định số 82/2017/NĐ-CP được ban hành, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường khẩn trương tổ chức phổ biến và triển khai thực hiện trên phạm vi toàn quốc. Theo đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức nhiều hội nghị phổ biến, hướng dẫn với các Sở Tài nguyên và Môi trường, các tổ chức, cá nhân đang hoạt động khai thác tài nguyên nước thực hiện việc kê khai, tính toán xác định số tiền phải nộp và tổ chức thẩm định, phê duyệt tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước đối với công trình khai thác nước. Đồng thời, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã có nhiều văn bản hướng dẫn, đôn đốc các địa phương, các cơ sở khai thác nước triển khai việc tính toán, kê khai và phê duyệt số tiền phải nộp làm căn cứ để các cơ quan thuế ở các địa phương thông báo, thu tiền.
Sau 3 năm triển khai thi hành Nghị định nêu trên, tính đến ngày 09/09/2020: Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phê duyệt tiền cấp quyền khai thác cho 675 công trình khai thác (chủ yếu là thủy điện), với tổng số tiền là 10.096 tỷ đồng. Trong đó, số tiền phải nộp cho năm 2018 khoảng 1.010,6 tỷ đồng, số tiền phải nộp cho năm 2019 khoảng 1.182,3 tỷ đồng, số tiền sẽ phải nộp cho năm 2020 là 1.192,6 tỷ đồng. Các địa phương cũng đã phê duyệt tiền cấp quyền khai thác cho 1.775 công trình khai thác, với tổng số tiền khoảng 309,6 tỷ đồng, trong đó số tiền phải nộp cho năm 2018 khoảng 30,07 tỷ đồng, số tiền phải nộp cho năm 2019 khoảng 45,3 tỷ đồng. Số tiền sẽ phải nộp cho năm 2020 là 38,5 tỷ đồng (trên cơ sở văn 46 tỉnh, thành có gửi quyết định phê duyệt tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước về Bộ Tài nguyên và Môi trường).
Về thực hiện chính sách ưu đãi các hoạt động sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả
Để triển khai thực hiện Nghị định số 54/2015/NĐ-CP của Chính phủ, Bộ đang triển khai dự án “Phân loại mức độ khan hiếm nước, thiếu nước và đề xuất áp dụng các biện pháp tích trữ nước, tiết kiệm nước, hạn chế khai thác, sử dụng nước theo từng cấp độ khan hiếm nước, thiếu nước”. Kết quả của dự án sẽ thành lập được bản đồ mức độ khan hiếm, thiếu nước cho 11 lưu vực sông tỷ lệ 1:200.000 là cơ sở để công bố vùng khan hiếm nước ngọt.
Về thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực tài nguyên nước
Để có cơ sở đề xuất các cơ chế, chính sách thu hút các nguồn lực để thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực tài nguyên nước, Bộ đang hoàn thiện đề án “Đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ nước, phát triển ngành kinh tế nước”.