Chú trọng hoàn thiện các công cụ hỗ trợ của Nhà nước trong quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường

Tham vấn chính sách, pháp luật 25/10/2020

Thời gian qua, cùng với tăng cường nghiên cứu hoàn thiện thể chế KTTT trong lĩnh vực tài nguyên, môi trường nhiều cách tiếp cận, công cụ quản lý mới đã được nghiên cứu, áp dụng trong thực tiễn và mang lại những hiệu quả tích cực.

Các công cụ hỗ trợ của Nhà nước trong quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường được chú trọng nghiên cứu để hỗ trợ cho quản lý, điều tiết các hoạt động về đất đai, tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.

Một là, vai trò định hướng trong điều tra cơ bản, khai thác, sử dụng đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên rừng và đa dạng sinh học, tài nguyên và môi trường biển và hải đảo, BVMT và ứng phó với BĐKH đã được thể hiện thông qua hệ thống các chiến lược tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các cấp, Chiến lược quốc gia về phát triển bền vững; Chiến lược tăng trưởng xanh; các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch đối với một số dạng tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; và cả trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch các ngành có liên quan khác.

Hai là, các công cụ kinh tế bao gồm thuế, phí, lệ phí trong các lĩnh vực đất đai, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, tài nguyên rừng, đa dạng sinh học, biển và hải đảo, BVMT đã được hoàn thiện theo hướng ngày càng phù hợp, đúng bản chất hơn. Kết quả đó đã góp phần phát huy được vai trò của Chính phủ trong việc định hướng và điều tiết các hoạt động điều tra, đánh giá tài nguyên, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên theo hướng tiết kiệm, hiệu quả; điều tiết hành vi của doanh nghiệp, người dân trong BVMT.

Ba là, các chính sách ưu đãi về đất đai, vốn, lao động, khoa học và công nghệ, lệ phí trước bạ, thuế (thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất - nhập khẩu…) đã được quy định rõ trong các Luật, Nghị định và Thông tư hướng dẫn và triển khai trên thực tiễn đã góp phần huy động sự tham gia của doanh nghiệp, người dân và các tổ chức trong việc khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, BVMT và ứng phó với BĐKH.

Bốn là, một số cơ chế tài chính đặc thù như “chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng”; “ký quỹ cải tạo và phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản”; thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, tài nguyên nước; quỹ BVMT, quỹ phòng chống thiên tai; phí khai thác, sử dụng dữ liệu tài nguyên và môi trường, dữ liệu viễn thám quốc gia… đã được hoàn thiện trong thời gian vừa qua góp phần thực hiện các nguyên tắc căn bản trong QLTN, BVMT và ứng phó với BĐKH theo hướng tiếp cận thị trường.

Năm là, thu - chi ngân sách nhà nước đối với các hoạt động BVMT được đổi mới, hoàn thiện và đa dạng hơn. Quá trình sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các công cụ kinh tế về đất đai, tài nguyên thiên nhiên đã góp phần làm cho nguồn thu từ đất đai, tài nguyên thiên nhiên ngày càng đa dạng và tăng cao hơn. Cơ chế tài chính chi sự nghiệp BVMT đã được sửa đổi qua các giai đoạn đã góp phần đáp ứng nhu cầu về vốn cho việc giải quyết các vấn đề môi trường cấp bách. Chi ngân sách cho các Chương trình mục tiêu quốc gia như: Chương trình Mục tiêu Quốc gia về BĐKH giai đoạn 2011 - 2015; Chương trình mục tiêu quốc gia khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường giai đoạn 2011 – 2015; Chương trình hỗ trợ ứng phó với BĐKH (SP-RCC)… Trong bối cảnh, các vấn đề về môi trường ngày càng gia tăng, BĐKH diễn biến ngày càng phức tạp và khó lường trong khi đó việc huy động nguồn lực xã hội hóa cho BVMT, ứng phó với BĐKH còn chậm thì những nguồn tài chính trên đóng vai trò quan trọng.