Các căn cứ đề xuất nhiệm vụ gồm: Luật Đất đai số 45/2013/QH13 ngày 29 tháng 11 năm 2013; Nghị quyết số 17/NQCP ngày 18/9/2019 của Chính phủ thực hiện Kết luận số 36-KL/TW ngày 06/9/2018 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết trung 6 khóa XI về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; Nghị quyết số 134/2016/QH13 ngày 09 tháng 4 năm 2016 của Quốc hội về Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016-2020) cấp quốc gia.
Hiện nay, cả nước có khoảng 11,5 triệu ha diện tích đất sản xuất nông nghiệp, trong đó có khoảng trên 4,1 triệu ha diện tích đất trồng lúa, gần 4,5 triệu ha diện tích đất trồng cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm. Trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm khuyến khích khai hoang, mở rộng, sử dụng hiệu quả đất sản xuất nông nghiệp tạo ra những bước chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp với nhiều thành tựu to lớn quan trọng và có ý nghĩa lịch sử, đưa nước ta từ một nước có nền sản xuất lạc hậu, thiếu ăn phải nhập khẩu gạo trở thành một nước có nền sản xuất tiên tiến với nguồn nông sản dồi dào không những đủ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước, mà còn cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu góp phần to lớn thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm an sinh xã hội. Nhiều nông sản như lúa gạo, cà phê, tiêu, cao su... của Việt Nam là những mặt hàng xuất khấu với số lượng đứng hàng đầu thế giới.
Tuy nhiên, do đất sản xuất nông nghiệp manh mún, không phù hợp với sản xuất công nghiệp, chi phí sản xuất cao, tình hình hạn hán, lũ lụt xâm nhập mặn…ngày càng gia tăng do biến đổi khí hậu nên hiệu quả từ sản xuất nông nghiệp kém hiệu quả, sức cạnh tranh hàng hóa nông sản thấp. Cùng với đó, các sản phẩm do người nông dân làm ra lại rơi vào tình cảnh giá cả bấp bênh, thậm chí không có đầu ra... do đó xuất hiện tình trạng người dân không thiết tha với đồng ruộng, để hoang hóa ruộng đồng.
Mặt khác, do tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, nhiều địa phương nôn nóng trong phát triển công nghiệp và đô thị, nên đã thu hồi nhiều diện tích đất sản xuất nông nghiệp, trong khi khả năng thu hút đầu tư thấp, năng lực tài chính nhà đầu tư không có dẫn đến việc thực hiện dự án kéo dài trong nhiều năm hoặc bỏ hoang hóa gây bức trong xã hội.
Bên cạnh đó, tình trạng ô nhiễm do sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nước thải sinh hoạt ngày càng tăng, không kiểm soát nổi làm cho nhiều diện tích đất canh tác không sản xuất được phải hoang hóa ngày càng nhiều…
Vì vậy, tại Nghị quyết số 134/2016/QH13 ngày 09/4/2016 của Quốc hội về Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016 - 2020) cấp quốc gia trong đó yêu cầu “Điều tra, đánh giá thực trạng đất sản xuất nông nghiệp bỏ hoang; hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý đất đai, chính sách tài chính về đất đai để khuyến khích việc sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả, tránh bỏ hoang gây lãng phí đất đai”. Xuất phát từ thực tiễn và yêu cầu của Quốc hội, việc thực hiện Dự án “Điều tra, đánh giá thực trạng đất sản xuất nông nghiệp hoang hóa, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nguồn lực đất đai” là rất cần thiết.
Các nội dung thực hiện gồm: Điều tra thực trạng đất sản xuất nông nghiệp bị hoang hóa của các vùng kinh tế - xã hội trên địa bàn cả nước (điều tra chi tiết trên nền bản đồ địa chính hoặc bản đồ hiện trạng sử dụng đất cấp xã); Điều tra nguyên nhân tình trạng đất sản xuất nông nghiệp bị hoang hóa; Đánh giá thực trạng và nguyên nhân đất sản xuất nông nghiệp bị hoang hóa; Đánh giá tác động của cơ chế chính sách đến quản lý, sử dụng đất sản xuất nông nghiệp; Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nguồn lực đất đai.
Kết quả của dự án gồm sản phẩm là Báo cáo tổng hợp kết quả Điều tra, đánh giá thực trạng đất sản xuất nông nghiệp hoang hóa, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nguồn lực đất đai; các tài liệu, số liệu, báo cáo chuyên đề và dữ liệu điều tra liên quan.