Giáo dục, nâng cao nhận thức, năng lực và thể chế trong cảnh báo sớm, ứng phó với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ rủi ro thiên tai

Tin tức - Sự kiện 05/10/2020

Nhiệm vụ thực hiện gồm: Xây dựng, thực hiện các chương trình truyền thông nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức và các thành phần xã hội về các vấn đề biến đổi khí hậu. Đưa kiến thức cơ bản về ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm nhẹ rủi ro thiên tai vào trong các chương trình, bậc giáo dục, đào tạo các cấp; xây dựng các chương trình đào tạo; phát triển và có chính sách đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao các chuyên ngành liên quan đến thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính; Nâng cao năng lực trong quản lý và lập kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu, đặc biệt chú trọng tới phụ nữ, thanh niên, cộng đồng địa phương và những nhóm hay bị lãng quên;  Đầu tư xây dựng và vận hành hiệu quả hệ thống giám sát biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Hiện đại hóa hệ thống quan trắc và công nghệ dự báo khí tượng thủy văn bảo đảm cảnh báo, dự báo sớm các hiện tượng thời tiết, khí hậu cực đoan; Huy động các nguồn lực tài chính từ hợp tác quốc tế để tăng cường năng lực trong cảnh báo sớm, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Về xây dựng, thực hiện các chương trình truyền thông nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức và các thành phần xã hội về các vấn đề biến đổi khí hậu

Đề án “Nâng cao nhận thức cộng đồng và quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1002/QĐ-TTg ngày 13/7/2009 với mục tiêu đến năm 2020, 100% cán bộ chính quyền các cấp trực tiếp làm công tác phòng, chống thiên tai được đào tạo, tập huấn, nâng cao năng lực và 70% người dân các xã thuộc vùng thường xuyên chịu ảnh hưởng bởi thiên tai được tăng cường nhận thức, kĩ năng trong giảm nhẹ thiên tai, qua đó người dân chủ động tham gia đánh giá hiểm họa, xác định nguồn lực, xây dựng kế hoạch phòng chống thiên tai.

Về nâng cao năng lực trong quản lý và lập kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu

Đến nay, tất cả 63/63 tỉnh/thành phố đã hoàn thành việc xây dựng và ban hành Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu, 37/63 địa phương đã và đang xây dựng Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020 với nhiều mô hình được triển khai. 39/63 địa phương đã xây dựng kế hoạch phòng, chống thiên tai.

Về đầu tư xây dựng và vận hành hiệu quả hệ thống giám sát biến đổi khí hậu và nước biển dâng

Năm 2018, Bộ TN&MT triển khai thực hiện Dự án “Xây dựng mạng lưới giám sát biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam” với tổng mức vốn đầu tư là 71.643 triệu đồng. Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng chi tiết đến từng địa phương trong cả nước đã được xây dựng cập nhật 2 lần vào các năm 2012 và 2016 với mức độ chi tiết ngày càng cao. Kịch bản năm 2016 được xây dựng chi tiết cho 63 tỉnh/thành thành phố, các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và chi tiết cho 150 trạm khí tượng; kịch bản nước biển dâng được xây dựng chi tiết cho 28 tỉnh ven biển, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; đã xây dựng bản đồ nguy cơ ngập lụt chi tiết đến cấp xã đối với các khu vực có bản đồ địa hình tỉ lệ 1:2000. Hiện đang tổ chức xây dựng bản đồ ngập lụt hạ du các hồ chứa nước trên 06 lưu vực sông liên tỉnh: sông Hồng - Thái Bình, sông Mã, sông Vu Gia - Thu Bồn, sông Ba, sông Sê San, sông Srepok theo các kịch bản xả lũ khẩn cấp hồ chứa và vỡ đập. Có 08/21 tỉnh, thành phố có đô thị trong danh mục Đề án có nguy cơ ngập lụt đã xây dựng cơ sở dữ liệu, mô hình ứng phó với biến đổi khí hậu, lập các bản đồ ngập lụt đô thị (Thái Bình, Nam Định, Thanh Hóa, Đà Nẵng, Quảng Nam, Tp. Hồ Chí Minh, Kiên Giang, Cà Mau).

Về hiện đại hóa hệ thống quan trắc và công nghệ dự báo khí tượng thủy văn bảo đảm cảnh báo, dự báo sớm các hiện tượng thời tiết, khí hậu cực đoan

Từ năm 2007, Tổng cục Khí tượng Thủy văn (trước kia là Trung tâm Khí tượng Thủy văn quốc gia) bắt đầu thực hiện chương trình hiện đại hóa, tự động hóa đồng bộ trên cả 03 lĩnh vực cụ thể: hệ thống mạng lưới quan trắc, hệ thống thông tin, hệ thống phân tích số liệu và dự báo khí tượng thủy văn. Kết quả thực hiện đã từng bước phát triển mạng lưới quan trắc cả về số lượng và chất lượng theo hướng tự động hóa; từng bước hình thành hệ thống thông tin chuyên ngành hiện đại, trên cơ sở đó phát triển công nghệ dự báo hiện đại, nâng cao chất lượng dự báo khí tượng thủy văn, đặc biệt là dự báo bão, lũ, phục vụ phòng chống thiên tai, phát triển kinh tế - xã hội. Từ gần 500 trạm khí tượng thủy văn vào đầu năm 2002, sau 17 năm đã phát triển thành mạng lưới trạm khí tượng thủy văn đã có trên 1.400 trạm, điểm đo, trong đó có: 194 trạm khí tượng, 14 trạm bức xạ, 27 trạm khí tượng nông nghiệp, 354 trạm thủy văn, 23 trạm khí tượng hải văn, 91 điểm quan trắc xâm nhập mặn vùng cửa sông, 09 trạm ra đa thời tiết, 06 trạm thám không vô tuyến, 08 trạm đo gió trên cao bằng máy kinh vĩ quang học, 03 trạm đo tổng lượng ô dôn - bức xạ cực tím và 755 điểm đo mưa. Các công trình đo đạc, nhà quan trắc của các trạm đã được kiên cố hoá, máy móc, thiết bị đo đạc lạc hậu, thủ công đã dần được thay thế bằng các thiết bị hiện đại, tự động và bán tự động.

Hệ thống mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia đã được đầu tư hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị khí tượng thủy văn tự động phục vụ công tác dự báo từ các Đề án: Đề án đầu tư cấp bách tăng cường năng lực dự báo khí tượng thủy văn phục vụ phòng chống thiên tai trọng tâm là công tác dự báo bão; Đề án hiện đại hoá công nghệ dự báo và mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn, giai đoạn 2010 - 2012; các dự án trong và ngoài nước (ODA Ý, Nhật, Phần Lan, Hàn Quốc và WB4, WB5…). Kết quả đạt được so với Quy hoạch phát triển mạng lưới trạm nêu trong Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 12/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia giai đoạn 2016-2015, tầm nhìn đến năm 2030 là:

Số trạm tự động được đầu tư là 130/454 trạm khí tượng, đạt 28,6% so với Quy hoạch.

Số trạm tự động đo mưa và mực nước được đầu tư là 227/640 trạm thủy văn, đạt 35 % so với Quy hoạch.

Số trạm đo mưa tự động được đầu tư là 974/4.304 trạm đo mưa, đạt 22,6% so với Quy hoạch.

Số trạm Ra đa thời tiết được đầu tư là 10/21 trạm rađa, đạt 48% so với Quy hoạch.

Số trạm Khí tượng Hải văn là 23/77 trạm, đạt 30% so với Quy hoạch, trong đó 16 trạm Khí tượng hải văn tự động.

Cùng với đó chất lượng các bản tin dự báo không ngừng được nâng cao, đã dự báo tương đối kịp thời các cơn bão và các đợt áp thấp nhiệt đới hoạt động trên khu vực Biển Đông; cảnh báo trước 48 -72h các đợt không khí lạnh, các loại hình thiên tai có nguồn gốc từ khí tượng thủy văn khác như rét đậm, rét hại, nắng nóng, mưa, lũ lụt nghiêm trọng trên phạm vi cả nước.

Năm 2019, Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) đã chọn Tổng cục Khí tượng Thủy văn của Việt Nam là Trung tâm dự báo hỗ trợ khu vực Đông Nam Á về các loại hình thời tiết nguy hiểm như bão, mưa lớn, gió mạnh. Hiện tại, WMO đang tiếp tục chọn Việt Nam làm Trung tâm dự báo hỗ trợ lũ, lũ quét cho khu vực Đông Nam Á.

Liên quan đến công tác xây dựng và cập nhật quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về biến đổi khí hậu, hiện nay cơ sở dữ liệu về biến đổi khí hậu của Việt Nam đang được Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu xây dựng, bao gồm (1) Cơ sở dữ liệu Đánh giá khí hậu quốc gia; (2) Cơ sở dữ liệu Kịch bản biến đổi khí hậu (tiếp tục thực hiện) sẵn sàng tích hợp với Tiểu dự án 4 “Đầu tư xây dựng Trung tâm dữ liệu vùng Đồng bằng sông Cửu Long tích hợp dữ liệu tài nguyên và môi trường của khu vực phục vụ phân tích, đánh giá và hỗ trợ ra quyết định về phát triển bền vững trong điều kiện biến đổi khí hậu” thuộc Hợp phần 1, dự án “Chống chịu khí hậu tổng hợp và sinh kế bền vững Đồng bằng sông Cửu Long”. Dự kiến sẽ hình thành hệ thống cơ sở dữ liệu ban đầu về biến đổi khí hậu tại Việt Nam trong quý 4/2020.

Về huy động các nguồn lực tài chính từ hợp tác quốc tế để tăng cường năng lực trong cảnh báo sớm, ứng phó với biến đổi khí hậu

Trong thời gian qua, Tổng cục Khí tượng Thủy văn đã tích cực phối hợp với các đối tác, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế trong việc hiện đại hóa ngành khí tượng thủy văn, cụ thể:

Phối hợp với Cơ quan Khí tượng Phần Lan (FMI) xây dựng đề xuất dự án “Hỗ trợ hiện đại hóa công tác khí tượng thủy văn tại Việt Nam giai đoạn 3”, sử dụng nguồn viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Phần Lan;

Xây dựng dự án “Nâng cao năng lực và phát triển dịch vụ khí tượng thủy văn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam” sử dụng Chương trình tín dụng đầu tư công của Chính phủ Phần Lan (PIF);

Xây dựng 01 đề xuất dự án liên quan đến “Hiện đại hóa hệ thống giám sát và dự báo thiên tai nhằm tăng cường khả năng ứng phó với thay đổi khí hậu, thời tiết và môi trường tại Việt Nam” nhằm huy động vốn ODA của KOICA;

Xây dựng 01 đề xuất dự án “Tăng cường năng lực xác định rủi ro thiên tai và môi trường dựa trên những yếu tố đặc thù của Việt Nam trước những thảm họa do tác động của Biến đổi khí hậu gây ra: bão, hạn hán, ngập lụt, xâm nhập mặn, sụt lở,… giúp xây dựng chương trình chiến lược phát triển thành phố bền vững tại Việt Nam” từ nguồn vốn ODA của Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) chu kỳ 7.

Phối hợp với Văn phòng Thường trực Ủy ban sông Mê Công Việt Nam và Cục Quản lý Tài nguyên nước chuẩn bị ý tưởng dự án chung “Tăng cường mạng lưới quan trắc, thông tin và dự báo khí tượng thủy văn cho 03 nước Việt Nam, Lào và Campuchia” dựa trên sự ủng hộ của Giám đốc quốc gia của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam và Bộ trưởng Bộ Khí tượng và Tài nguyên nước Campuchia, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lào, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam.

Hoàn thành và đưa vào hoạt động chính thức: 05 trạm ra đa Pha Đin, Việt Trì, Nha Trang, Quy Nhơn, Pleiku và 18 trạm định vị sét được đầu tư từ dự án “Nâng cấp khả năng đo mưa, dự báo bão và giông sét của Trung tâm KTTV quốc gia” (ODA Phần Lan 3); 150 trạm tự động (28 trạm khí tượng tự động, 71 trạm đo mưa và đo mực nước tự động; 51 trạm đo mưa tự động) và trạm Khí tượng Lệ Thủy được đầu tư từ dự án Hợp phần 2 "Tăng cường hệ thống dự báo thời tiết và cảnh báo sớm" thuộc Dự án "Quản lý thiên tai" (WB5),…

Các kết quả hợp tác với các nhà tài trợ, đối tác phát triển trong khuôn khổ đa phương và song phương một mặt đã tạo nguồn lực tài chính quan trọng để tăng cường nguồn lực ứng phó với biến đổi khí hậu tại Việt Nam, mặt khác cũng đã tạo ra cơ hội để chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ... góp phần tích cực vào việc hoàn thiện cơ chế chính sách, tăng cường năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu và nâng cao khả năng đóng góp của Việt Nam cùng cộng đồng thế giới ứng phó với biến đổi khí hậu.