Về thúc đẩy quản lý tổng hợp tài nguyên nước các lưu vực sông
Theo quy định của Luật Tài nguyên nước 2012, Ủy ban lưu vực sông có chức năng giúp Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo, phối hợp giải quyết việc điều hoà, phân phối nguồn nước, giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước, bảo vệ môi trường lưu vực sông, việc phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra và tham gia, phối hợp giải quyết các vấn đề có tính liên ngành, liên vùng, liên địa phương trên các lưu vực sông liên tỉnh thuộc phạm vi trách nhiệm của mình.
Mặc dù, trong các năm vừa qua, đã hình thành các tổ chức lưu vực sông là bước khởi đầu để thực hiện nguyên tắc quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực sông kết hợp với quản lý theo đơn vị hành chính. Đây là một mô hình quản lý tiên tiến mà nhiều nước trên thế giới đã áp dụng thành công, đáp ứng nguyện vọng, mong muốn đóng góp cho công tác quản lý tài nguyên nước của các Bộ, ngành liên quan và Ủy ban nhân dân địa phương. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động còn rất hạn chế, chủ yếu là tổ chức các cuộc họp, chia sẻ thông tin mà không đưa ra các quyết định có hiệu lực thực thi mang giá trị thiết thực trên lưu vực.
Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ thành lập 04 Ủy ban lưu vực sông (lưu vực sông Hồng-Thái Bình, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Đồng Nai) và kiện toàn Ủy ban sông Mê Công Việt Nam trên cơ sở giao thêm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban lưu vực sông, bao gồm cả Ủy ban lưu vực sông Cửu Long và Sê San - Srê Pốk. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 619/QĐ-TTg ngày 08/5/2020 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban sông Mê Công Việt Nam.
Về tăng cường kiểm soát ô nhiễm nguồn nước, chú trọng kiểm soát ô nhiễm các lưu vực sông và nguồn nước xuyên biên giới
Trong giai đoạn 2012 - 2015, Chính phủ đã thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường giai đoạn 2012 - 2015. Một trong 03 nội dung chính của Chương trình là thu gom, xử lý nước thải từ các đô thị loại II trở lên, các nguồn nước thải xả trực tiếp ra 03 lưu vực sông Cầu, Nhuệ - Đáy và Đồng Nai. Kết quả thực hiện, Chương trình đã hỗ trợ triển khai 02 dự án tại Thái Nguyên và Đồng Nai, thực hiện phân bổ gần 1.067 tỷ đồng cho 02 tỉnh Bắc Giang và Thái Nguyên; tại lưu vực sông Nhuệ - Đáy, đã có 04 dự án được đầu tư xử lý ô nhiễm môi trường với tổng dự toán là 290.976 tỷ đồng. Đến năm 2015, ngân sách trung ương đã hỗ trợ 72.885 tỷ đồng (BTNMT, 2018)[1].
Giai đoạn 2016-2020, Chương trình mục tiêu về xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thuộc đối tượng công ích năm 2016 - 2020[2] được phê duyệt và thực hiện. Một trong 03 dự án thành phần của Chương trình là Đầu tư xây dựng 03 dự án xử lý nước thải sinh hoạt tại nguồn từ các đô thị loại IV trở lên, xả trực tiếp ra 03 lưu vực sông Nhuệ - Đáy, sông Cầu và hệ thống sông Đồng Nai với tổng kinh phí là 3.407 tỷ đồng.
Về kiểm soát ô nhiễm các nguồn nước xuyên biên giới, Cục Quản lý tài nguyên nước (2019) đã thực hiện 2 dự án liên quan gồm: Dự án “Xây dựng hệ thống quan trắc, giám sát nguồn nước xuyên biên giới - giai đoạn 1: Xây dựng hệ thống quan trắc giám sát nguồn nước xuyên biên giới Việt Nam - Trung Quốc” đã thực hiện xây dựng 08 trạm quan trắc tài nguyên nước tự động ở khu vực biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc. Hiện nay, việc xây dựng các trạm quan trắc của dự án đã hoàn thành và đang vận hành; Cục Quản lý tài nguyên nước phối hợp Cục Viễn thám quốc gia thực hiện đề án “Theo dõi biến động nguồn nước, các hoạt động khai thác sử dụng nước ở ngoài biên giới phía thượng nguồn lưu vực sông Hồng, sông Mê Công”[3] với mục tiêu đánh giá sự biến động nguồn nước và tác động của việc khai thác, sử dụng nước ở ngoài biên giới phía thượng nguồn các lưu vực sông Hồng, sông Mê Công đến nguồn nước ở Việt Nam bằng công nghệ viễn thám.
Về tổ chức thực hiện quy hoạch bảo vệ tài nguyên nước và hệ sinh thái thủy sinh, đảm bảo chất lượng nguồn nước đáp ứng các mục đích sử dụng nước khác nhau
Trước ngày Luật Quy hoạch có hiệu lực đã có 52/63 địa phương đã xây dựng và ban hành quy hoạch tài nguyên nước cấp tỉnh theo quy định Luật Tài nguyên nước năm 2012.
Thực hiện theo quy định Luật Quy hoạch, Bộ đang tích cực triển khai xây dựng quy hoạch tài nguyên nước chung cả nước và một số lưu vực sông lớn. Quá trình triển khai thực hiện quy hoạch tài nguyên nước chung cả nước sẽ tập trung xây dựng nguyên tắc, định hướng điều hòa, phân bổ trên cơ sở nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và xu thế bảo vệ môi trường, sinh thái, biến động nguồn nước, trong đó có nội dung về bảo vệ tài nguyên nước, theo đó có các yêu cầu bảo vệ tài nguyên nước đối với các hoạt động khai thác, sử dụng nước khác nhau và các hệ sinh thái thủy sinh. Hiện nay, Bộ đang tổ chức thực hiện 15 quy hoạch: quy hoạch tài nguyên nước quốc gia, 13 quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh, nguồn nước liên tỉnh (Hồng-Thái Bình, sông Bằng Giang-Kỳ Cùng, sông Mã, sông Cả, sông Hương, Vu Gia-Thu Bồn, Trà Khúc, Kôn-Hà Thanh, sông Ba, Sê San, Srê Pốk, Đồng Nai và Cửu Long) và quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước. Về quy hoạch tài nguyên nước quốc gia, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch tài nguyên nước quốc gia tại Quyết định số 1748/QĐ-TTg ngày 04/12/ 2019 và đang thực hiện lập quy hoạch tài nguyên nước quốc gia, dự kiến trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 12/2021. Về quy hoạch tổng hợp lưu vực sông, hiện nay Bộ Tài nguyên và Môi trường đang triển khai lập quy hoạch cho 05 lưu vực sông: Hồng-Thái Bình, Bằng Giang-Kỳ Cùng, Sê San, Srê Pốk và ĐBSCL (trong đó 03 quy hoạch lưu vực sông Bằng Giang-Kỳ Cùng, Sê San, Srê Pốk dự kiến trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong tháng 12/2020 và 02 lưu vực sông Hồng-Thái Bình và ĐBSCL dự kiến trình Thủ tướng phê duyệt tháng 12/2021) và 08 lưu vực sông còn lại đang xây dựng nhiệm vụ lập quy hoạch .
Kết quả thực hiện các nỗ lực trong bảo đảm chất lượng nguồn nước, báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 2018 cho thấy môi trường nước mặt tại các lưu vực sông chính đã và đang dần được kiểm soát mức độ gia tăng ô nhiễm. Các lưu vực sông Hồng - Thái Bình, lưu vực sông Mã, lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn và lưu vực sông Mê Công là những lưu vực sông có chất lượng nước khá tốt, nhiều đoạn sông nước sử dụng tốt cho mục đích cấp nước sinh hoạt. Hầu hết các lưu vực sông trên lãnh thổ Việt Nam đều có giá trị TSS và độ đục trong nước khá cao, đặc biệt là vào mùa lũ. Mặc dù đây là đặc điểm tự nhiên của sông nhưng vẫn có những ảnh hưởng nhất định đối với những khu vực sử dụng nước sông làm nguồn nước cấp cho sinh hoạt.
Về nâng cao năng lực quản lý tài nguyên nước và sự phối hợp giữa các bộ, ngành và giữa các địa phương
Hiện nay, việc quản lý nguồn nước được thực hiện theo Luật tài nguyên nước 2012. Theo đó, nhấn mạnh nguyên tắc quản lý tổng hợp tài nguyên nước, thống nhất quản lý về số lượng và chất lượng, khẳng định tài nguyên nước là tài sản, là nguồn lực của quốc gia, là yếu tố quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.
Tại Điều 70 Luật tài nguyên nước đã giao Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về tài nguyên nước và giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về tài nguyên nước, quản lý lưu vực sông trong phạm vi cả nước. Việc quản lý tài nguyên nước phải bảo đảm thống nhất theo lưu vực sông, theo nguồn nước, kết hợp với quản lý theo địa bàn hành chính. Đồng thời, tài nguyên nước phải được quản lý tổng hợp, thống nhất về số lượng và chất lượng nước; giữa nước mặt và nước dưới đất; nước trên đất liền và nước vùng cửa sông, nội thủy, lãnh hải; giữa thượng lưu và hạ lưu, kết hợp với quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác.
Như vậy, Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm quản lý nhà nước về tài nguyên nước, quản lý lưu vực sông trong phạm vi cả nước, cụ thể hơn thì Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm quản lý về số lượng và chất lượng
nguồn nước.
Các Bộ, ngành khác có trách nhiệm quản lý các công trình khai thác, sử dụng nước theo chức năng, nhiệm vụ thực hiện quản lý các công trình khai thác và các hoạt động sử dụng nước của ngành mình khi khai thác nguồn nước, cụ thể như:
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (ngành nông nghiệp): quản lý các công trình khai thác như: hồ, đập, trạm bơm, cống, kênh thủy lợi, cấp nước tưới, sản xuất nông nghiệp và vệ sinh nông thôn, nước sạch nông thôn…;
Bộ Công Thương có trách nhiệm quản lý các công trình hồ chứa thủy điện, nhà máy nhiệt điện và khai thác, sử dụng nước cho sản xuất công nghiệp;
Bộ Xây dựng quản lý các công trình khai thác phục vụ cấp nước đô thị và quản lý chất thải, vệ sinh đô thị;
Bộ Y tế quản lý chất lượng và tiêu chuẩn nước sạch (nước sinh hoạt cấp đến người dân sử dụng);
Bộ Tài chính và Bộ Xây dựng chịu trách nhiệm trước Pháp luật về xác định giá nước sạch, theo đó Bộ Xây dựng và Bộ Tài chính hướng dẫn khung giá nước sạch và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá nước dựa trên sự đồng thuận của Hội đồng nhân dân tỉnh,...
Về phía trách nhiệm đối với nguồn nước của Bộ TN&MT, hiện nay Bộ quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường nước, kiểm soát ô nhiễm, ban hành và giám sát thực hiện các quy chuẩn kỹ thuật môi trường nước, đầu mối quốc gia về các điều ước quốc tế về nguồn nước và môi trường, thường trực Hội đồng quốc gia Tài nguyên nước, Ủy ban Sông Mekong Việt Nam và các tổ chức lưu vực sông. Bộ có 05 đơn vị liên quan đến tài nguyên nước: Cục Quản lý tài nguyên nước, Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia, Viện Khoa học tài nguyên nước, Tổng cục Môi trường và Ủy ban Sông Mê Công Việt Nam. Cục Quản lý tài nguyên nước cũng đã thành lập Chi cục Quản lý tài nguyên nước tại ba miền Bắc, Trung và Nam. Tại các địa phương là các phòng quản lý tài nguyên nước trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh thành và các phòng tài nguyên và môi trường ở quận huyện[1].
Về thực hiện có hiệu quả Luật Tài nguyên nước
Luật Tài nguyên nước được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 21/6/2012 đã tạo lập hành lang pháp lý cho công tác quản lý tài nguyên nước giúp nâng cao hiệu quả quản lý nguồn tài nguyên nước. Dự kiến sẽ tiến hành đánh giá công tác triển khai Luật tài nguyên nước 2012 làm cơ sở đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Tài nguyên nước trong năm 2021-2022.
Về tăng cường hợp tác quốc tế về khai thác và chia sẻ lợi ích tài nguyên nước, trước hết là các nước trong Tiểu vùng Mê Công
Đã tham gia Công ước về Luật sử dụng các nguồn nước liên quốc gia cho mục đích phi giao thông thủy (Quyết định số 818/2014/QĐ-CTN)[2].
Đã ký kết biên bản ghi nhớ tham gia Tổ chức lưu vực sông quốc tế và đang xây dựng đề án tham gia Hội đồng nước châu Á.
Thúc đẩy hợp tác với Ủy hội sông Mê Công quốc tế như triển khai các hoạt động để theo dõi biến động nguồn nước sông Mê Công, giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng nước trên lưu vực; tích cực tham gia chuyển giao các chức năng chủ chốt từ Ủy hội sông Mê Công quốc tế về Việt Nam. Trong thời gian tới dự kiến sẽ tiếp nhận thêm 4 hoạt động về thực hiện tại Việt Nam, gồm: 1) Giám sát sức khoẻ hệ sinh thái; 2) Giám sát biến động thuỷ sản trong lưu vực; 3) Giám sát vận chuyển phù sa bùn cát trên dòng chính sông Mê Công; và 4) Thu thập số liệu về đánh giá tác động kinh tế - xã hội do các biến động về môi trường trong lưu vực.
Bên cạnh đó, một số đề án, dự án về quan trắc, giám sát nguồn nước xuyên biên giới ở sông Hồng, sông Mê Công cũng đã bắt đầu được triển khai trong thời gian qua[3].
[1] World Bank, 2019, Việt Nam: Hướng tới một hệ thống nước có tính thích ứng, sạch và an toàn.
[2] Việc gia nhập Công ước của Việt Nam vào đầu năm 2014, với tư cách là thành viên thứ 35, đã chính thức đưa Công ước về Luật sử dụng các nguồn nước liên quốc gia cho mục đích phi giao thông thủy sau 17 năm thông qua (từ năm 1997) nhưng vẫn chưa có hiệu lực (vì chưa có đủ 35 thành viên) chính thức có hiệu lực thi hành từ Quý III năm 2014.
[3] Đề án “Theo dõi biến động nguồn nước, các hoạt động khai thác sử dụng nước ở ngoài biên giới phía thượng nguồn lưu vực sông Hồng, sông Mê Công”; Dự án “Xây dựng hệ thống quan trắc, giám sát nguồn nước xuyên biên giới, giai đoạn 1: Xây dựng hệ thống quan trắc, giám sát nguồn nước xuyên biên giới Việt Nam - Trung Quốc”; Xây dựng mạng quan trắc tài nguyên nước trên vùng đồng bằng sông Cửu Long thuộc Dự án chống chịu khí hậu tổng hợp và sinh kế bền vững đồng bằng sông Cửu Long do Ngân hàng Thế giới tài trợ.
[1] Bộ TNMT (2018), Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2018: Môi trường các lưu vực sông
[2] Quyết định số 807/QĐ-TTg ngày 03/7/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu về xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thuộc đối tượng công ích năm 2016- 2020
[3] Quyết định số 1808/QĐ- BTNMT ngày 30/10/ 2012 của Bộ Tài nguyên và Môi trường