Về điều hoà, phân bổ tài nguyên nước
Việc điều hoà, phân bổ nguồn nước giữa các ngành, địa phương đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ, tuy nhiên đến nay chưa thành lập được tổ chức để điều phối các hoạt động theo lưu vực sông; các công trình khai thác, sử dụng nước lớn cho các mục đích khác nhau hầu hết đã được xây dựng hoặc đã được phê duyệt quy hoạch, đang triển khai, do vậy việc điều chỉnh mục tiêu nhiệm vụ, phân bổ, điều tiết lại khai thác, sử dụng nước của các công trình này là hết sức khó khăn và phức tạp.
Công tác điều tra cơ bản, kiểm kê, đánh giá TNN
Thông tin, dữ liệu, số liệu điều tra, đánh giá, quan trắc tài nguyên nước còn thiếu, còn phân tán. Trong khi đó, nhu cầu thông tin dữ liệu phục vụ cho công tác quản lý tài nguyên nước, nhất là phục vụ công tác chỉ đạo điều hành, công tác dự báo, thẩm định hồ sơ cấp phép ở cả cấp trung ương và các địa phương cần đầy đủ và đồng bộ.
Đến nay, hệ thống mạng quan trắc tài nguyên nước phục vụ công tác dự báo, cảnh báo thiếu nước, ô nhiễm, cạn kiệt nguồn nước còn hạn chế, chưa đảm bảo chủ động trong việc kiểm soát nguồn nước ở nhiều khu vực; chưa đủ số lượng trạm quan trắc phục vụ vận hành liên hồ chứa, chưa bảo đảm chủ động trong việc kiểm soát lũ, hạn hán, ô nhiễm nguồn nước ở nhiều khu vực; chế độ báo cáo, cung cấp dữ liệu, thông tin về TNN, về khai khác, sử dụng nước của các ngành, địa phương và các tổ chức, cá nhân chưa được coi trọng. Chưa thực hiện được công tác thống kê, kiểm kê TNN trên quy mô toàn quốc, chưa xây dựng được ngân hàng dữ liệu TNN quốc gia. Hệ thống dữ liệu TNN hiện có chưa được đầy đủ, thiếu đồng bộ, dẫn đến công tác dự báo sớm tình hình hạn hán, thiếu nước, lũ lụt, ô nhiễm, cạn kiệt nguồn nước thực tế còn hết sức khó khăn.
Công tác bảo vệ TNN
Chưa xác định được mục đích sử dụng nước, mục tiêu chất lượng nước; và chưa kiểm soát được các nguồn gây ô nhiễm nguồn nước trên các lưu vực sông quan trọng, các khu vực đô thị, vùng phát triển kinh tế trọng điểm (như vị trí, lưu lượng, tình trạng xử lý và chất lượng nước thải của tất cả các cơ sở sản xuất, khu công nghiệp, đô thị).
Hoạt động quản lý, kiểm soát ô nhiễm nguồn nước mới tập trung chủ yếu ở khu vực đô thị và các đoạn sông xung quanh thành phố và khu công nghiệp, việc kiểm soát chất lượng nước và ô nhiễm nước ở các vùng nông thôn chưa được quan tâm thoả đáng.
Các vấn đề mang tính liên ngành, như: quy hoạch, phát triển, khôi phục rừng đầu nguồn, bảo vệ nguồn sinh thủy; bảo vệ nguồn nước trong quá trình thực hiện các dự án thủy điện, thủy lợi, nuôi trồng thủy sản… chưa có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa cơ quan quản lý TNN với các cơ quan, bộ, ngành liên quan và UBND các tỉnh.
Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa diễn ra nhanh chóng đã làm phát sinh thêm nhiều vấn đề, khó khăn cho công tác bảo vệ TNN. Trong khi, nhiều địa phương chưa có sự quan tâm đúng mức, chưa có tầm nhìn tổng thể, dài hạn; ý thức của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp về bảo vệ TNN còn rất hạn chế, vì vậy trên thực tế nguồn nước vẫn tiếp tục bị đe dọa bởi các hoạt động phát triển kinh tế, nhất là tại các đô thị, khu công nghiệp, làng nghề.
Công tác quản lý hoạt động khai thác, sử dụng TNN, xả nước thải vào nguồn nước
Đến nay, chưa thực hiện được công tác thống kê, kiểm kê khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước trên quy mô toàn quốc (do đây là khối lượng công việc rất lớn, kinh phí thực hiện hằng năm chưa đảm bảo).
Nhận thức về sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả của các cấp, các ngành và tổ chức, cộng đồng còn thấp, phần lớn vẫn cho rằng “nước là của trời cho”, vì vậy, cùng với việc thiếu các biện pháp cụ thể, sự kiên quyết của các cấp quản lý đã dẫn tới việc khai thác, sử dụng TNN ở nước ta còn lãng phí và chưa đạt hiệu quả cả về mặt kinh tế và bảo vệ tài nguyên.
Mặc dù, công tác cấp giấy phép về TNN đã được thực hiện trong nhiều năm nay, nhưng đến nay vẫn còn nhiều công trình khai thác, sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước chưa có giấy phép (do số lượng công trình lớn; ý thức chấp hành pháp luật của các tổ chức, doanh nghiệp còn thấp và do sự quan tâm chỉ đạo cũng như năng lực quản lý của các cấp quản lý TNN còn hạn chế). Ngoài ra, việc cấp phép khai thác, sử dụng TNN, xả nước thải vào nguồn nước còn gặp khó khăn, cụ thể là:
Một là, việc lập quy hoạch, kế hoạch phát triển thuỷ lợi, thuỷ điện và thiết kế, xây dựng các công trình hồ đập, quy trình vận hành hồ đập… đều do các ngành thẩm định, phê duyệt, ít có sự tham gia của cơ quan quản lý TNN, trong khi đó các nội dung liên quan đến vị trí, quy mô khai thác nước và các thông số kỹ thuật về thiết kế, vận hành công trình khai thác nước đã được quyết định, phê duyệt bởi cấp có thẩm quyền của các bộ/ngành. Vì vậy, việc cấp giấy phép khó đưa ra các điều kiện khả thi để bảo đảm thực hiện các yêu cầu của quản lý TNN (như duy trì dòng sông, bảo đảm nguồn nước cho các đối tượng khác ở hạ du và bảo vệ môi trường, hệ sinh thái thủy sinh và khai thác, sử dụng tổng hợp, hiệu quả nguồn nước).
Hai là, do việc đầu tư xây dựng công trình cấp nước mới chủ yếu tập trung ở các khu vực đô thị, khu dân cư nông thôn tập trung, nhiều khu vực chưa có hệ thống cấp nước hoặc chưa đáp ứng nhu cầu về số lượng, chất lượng nước, vì vậy số lượng công trình khai thác nước dưới đất trên toàn quốc là rất lớn, phạm vi phân bố rộng, trong khi lực lượng cán bộ quản lý của hầu hết các địa phương còn mỏng.
Ba là, nhiều khu, cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung nhưng không đáp ứng được yêu cầu xử lý nước thải ngày càng tăng cao do không đủ kinh phí và không còn quỹ đất để mở rộng hệ thống xử lý nước thải;
Bốn là, nhiều tỉnh, nhất là các tỉnh thuộc đồng bằng, nước thải sản xuất của các khu công nghiệp, cơ sở sản xuất, khu đô thị, dân cư phần lớn xả vào các kênh tưới, tiêu thủy lợi và được ngành NN&PTNT hoặc UBND các tỉnh cấp giấy phép xả nước thải vào kênh thủy lợi. Nhưng các kênh tưới/tiêu đều không phải là hệ thống xử lý nước thải; không có hệ thống quan trắc, giám sát; nước từ các kênh này tiêu thoát hoặc được bơm trực tiếp ra sông, gây ô nhiễm nguồn nước. Quá trình xử lý vấn đề này chưa có sự phối hợp chặt chẽ và quy định cụ thể trách nhiệm của các Sở NN&PTNT và Sở TN&MT.
Năm là, việc thiếu quy hoạch TNN, chưa có phân vùng xả thải, chưa xác định mục tiêu, chức năng sử dụng nguồn nước… gây khó khăn cho việc cấp phép xả nước thải vào nguồn nước. Do hạn chế về nguồn lực, trang thiết bị, công nghệ nên việc kiểm tra, giám sát hoạt động khai thác, sử dụng nước, xả nước thải sau cấp phép còn hạn chế.
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và kiểm tra, thanh tra về TNN
Do thiếu cán bộ kinh nghiệm và nguồn kinh phí hạn hẹp ở cả cấp trung ương và địa phương nên công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật chưa được thực hiện thường xuyên, chưa được phổ biến sâu rộng tới người dân và doanh nghiệp.
Công tác kiểm tra việc thi hành pháp luật về TNN chưa được thường xuyên. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước tuy đã được tăng cường thực hiện và đã đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Lực lượng thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực tài nguyên nước còn mỏng, trang thiết bị phục vụ công tác còn thiếu, kinh phí cấp cho công tác thanh tra, kiểm tra lĩnh vực tài nguyên nước còn hạn chế, vì vậy việc phát hiện và xử lý các vi phạm trong lĩnh vực tài nguyên nước chưa kịp thời. Tình trạng thăm dò, khai thác, sử dụng TNN, xả nước thải vào nguồn nước và hành nghề khoan nước dưới đất không xin phép còn diễn ra khá phổ biến tại nhiều địa phương.
Về bộ máy quản lý TNN
Bộ máy quản lý nhà nước về TNN ở địa phương còn nhiều bất cập, cho đến nay hầu hết tổ chức bộ máy quản lý TNN ở cấp Sở cũng như cấp huyện chưa đáp ứng yêu cầu để thực hiện các nhiệm vụ quản lý TNN theo quy định của Luật TNN năm 2012 và hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành Luật.
Thiếu cán bộ và thiếu cán bộ có chuyên môn về TNN là tình trạng phổ biến, đặc biệt là ở cấp Phòng TN&MT các quận, huyện, thị xã, thành phố của hầu hết các tỉnh không có cán bộ chuyên môn về TNN.