Cần thiết kêu gọi sự hỗ trợ quốc tế cho quản lý rác thải nhựa đại dương

Tin tức - Sự kiện 01/10/2020

Sử dụng nhựa dự kiến sẽ đạt mức cao chưa từng thấy trong những thập kỷ tới, tăng gấp đôi trong vòng 15 năm và tăng gấp bốn lần vào năm 2050. 80% nhựa được tìm thấy trong đại dương có nguồn gốc từ đất liền và 8 triệu tấn nhựa được đưa vào biển mỗi năm.

Nhu cầu quản lý rác thải nhựa trên Thế giới, trong Khu vực và tại Việt Nam ngày càng tăng. Sử dụng nhựa dự kiến sẽ đạt mức cao chưa từng thấy trong những thập kỷ tới, tăng gấp đôi trong vòng 15 năm và tăng gấp bốn lần vào năm 2050. 80% nhựa được tìm thấy trong đại dương có nguồn gốc từ đất liền và 8 triệu tấn nhựa được đưa vào biển mỗi năm. Chất thải nhựa có nguy cơ cao đối với các sinh vật thủy sinh, gây hậu quả nghiêm trọng đối với hệ sinh thái biển và sự bền vững của nghề cá. Ô nhiễm nhựa có nhiều tác động bất lợi về kinh tế, xã hội và môi trường. Đặc biệt, ô nhiễm nhựa trong biển đòi hỏi chi phí lên tới 2,5 tỷ USD mỗi năm do làm mất đi giá trị các dịch vụ hệ sinh thái biển. Xử lý ô nhiễm nhựa đòi hỏi sự hợp tác và tham gia của nhiều bên, đặc biệt là thông qua sự thay đổi cấp độ hệ thống theo hướng kinh tế tuần hoàn dựa trên cả hai cách tiếp cận từ trên xuống và từ dưới lên. Do đó, cần phải xác định và tận dụng các giải pháp hiện có nhằm ngăn chặn việc phát sinh chất thải nhựa và cải thiện hệ thống quản lý chất thải tại địa phương.

Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đã được ban hành (tại Quyết định số 1746/QĐ-TTg ngày 04 tháng 12 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ). Kế hoạch này đặt mục tiêu thực hiện có kết quả các sáng kiến và cam kết của Việt Nam với quốc tế về việc giải quyết các vấn đề rác thải nhựa mà trọng tâm là rác thải nhựa đại dương, phấn đấu đưa Việt Nam trở thành quốc gia tiên phong trong khu vực về giảm thiểu rác thải nhựa đại dương. Mục tiêu cụ thể đến 2025 được nêu trong Kế hoạch là giảm thiểu 50% rác thải nhựa trên biển và đại dương; 50% ngư cụ khai thác thủy sản bị mất hoặc bị vứt bỏ được thu gom; 80% các khu, điểm du lịch, cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú du lịch và dịch vụ du lịch khác ven biển không sử dụng sản phẩm nhựa dùng một lần và túi ni lông khó phân hủy; bảo đảm tối thiểu một năm hai lần phát động tổ chức chiến dịch thu gom, làm sạch các bãi tắm biển trên toàn quốc; 80% các khu bảo tồn biển không còn rác thải nhựa. Để đạt được các mục tiêu trên, Việt Nam cũng đã xác định nhiều giải pháp, trong đó có hợp tác với các tổ chức quốc tế trong nghiên cứu khoa học, ứng dụng, phát triển, chuyển giao công nghệ và triển khai các sáng kiến về quản lý rác thải nhựa đại dương.

Vấn đề rác thải nhựa đại dương cũng được đề cập đến trong mục tiêu và chủ trương của Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (theo Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22 tháng 10 năm 2018 của Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII), như một trong số các hoạt động đề xuất để phát triển bền vững biển Việt Nam, bao gồm phát triển các ngành kinh tế biển theo hướng bền vững, bảo vệ môi trường biển, duy trì giá trị dịch vụ sinh thái biển, ứng phó thiên tai, biến đổi khí hậu, phát triển văn hóa biển và cải thiện sinh kế cộng đồng ven biển. Ngày 5/3/2020, Chính phủ đã ban hành Kế hoạch tổng thể và Kế hoạch 5 năm của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22 tháng 10 năm 2018 của Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết số 26/NQ-CP), với 24 đề án, dự án, nhiệm vụ đề xuất cho giai đoạn từ nay đến 2025 và 9 cho giai đoạn 2026-2030 trong đó có Đề án thúc đẩy hình thành khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế về phòng, chống, giảm thiểu rác thải nhựa đại dương. Có thể nói, việc triển khai các nội dung của Kế hoạch tổng thể và Kế hoạch 5 năm nói trên là rất quan trọng và cần thiết đối với Việt Nam hướng tới nền kinh tế biển xanh, hòa nhập vào xu thế phát triển chung của khu vực và
quốc tế.

Việt Nam đã có một số hoạt động của trong khuôn khổ quốc gia và hợp tác quốc tế về rác thải biển như: Đề tài “Nghiên cứu, đánh giá nguồn gốc, sự di chuyển và tích tụ của rác thải biển ở vùng biển ven bờ Quảng Ninh-Hải Phòng và đề xuất giải pháp quản lý rác thải biển; Dự án “Điều tra, đánh giá hiện trạng và tác động của các nguồn thải trên biển đến môi trường và đề xuất giải pháp quản lý nguồn thải trên biển phục vụ quản lý tổng hợp tài nguyên và môi trường biển, hải đảo Vịnh Bắc Bộ (giai đoạn 1 từ Quảng Ninh đến Ninh Bình)”; Dự án “Đánh giá tải lượng chất thải ảnh hưởng đến môi trường biển Việt Nam”; Dự án “Kiểm soát ô nhiễm môi trường biển do các hoạt động kinh tế-xã hội vùng biển Quảng Ninh-Hải Phòng, Đà Nẵng-Quảng Nam và Bà Rịa-Vũng Tàu-Thành phố Hồ Chí Minh”; Đề tài “Nghiên cứu xây dựng Hệ thống xử lý chất thải từ tàu tại các cảng biển Việt Nam”; Nhiệm vụ: “Đánh giá hiện trạng ô nhiễm biển và đại dương ở Việt Nam”; Nhiệm vụ “Nghiên cứu cơ sở lý luận kinh nghiệm quốc tế về kiểm soát rác thải nhựa đại dương”. Nhìn chung, các đề tài, Dự án nói trên chưa đi sâu vào vấn đề rác thải nhựa đại dương, chưa cung cấp được các thông tin về nguồn phát sinh, số lượng, phân bố và thành phần rác thải nhựa đại dương ở Việt Nam, cũng như các tác động của rác thải nhựa đại dương tới môi trường, kinh tế, xã hội vùng ven biển. Hiện Tổng cục Biển và hải đảo Việt Nam (VASI) đang xây dựng dự án điều tra, đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp kiểm soát, quản lý rác thải nhựa đại dương ở Việt Nam. 

Việt Nam cũng có những bước chuẩn bị ban đầu để triển khai Kế hoạch tổng thể và kế hoạch 5 năm như: thành lập Ủy ban chỉ đạo quốc gia về thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Văn phòng thường trực Ủy ban chỉ đạo đặt tại Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam. Trong giai đoạn này, sự hỗ trợ quốc tế sẽ cung cấp vốn ODA viện trợ không hoàn lại cho các hoạt động hội nghị, hội thảo, tập huấn, đào tạo và thuê chuyên gia... sẽ có ý nghĩa quan trọng và cần thiết, giúp cho việc quảng bá, tuyên truyền, tăng cường kiến thức và nâng cao nhận thức về nền kinh tế biển xanh.